Chúng là một trong những loài cá nhám mèo nhỏ nhất trong họ.Không giống như các thành viên khác trong chi của nó, loài cá nhám mảnh mai, nhỏ bé này có mõm tròn, ngắn và các nếp nhăn rất ngắn ở các góc hàm. Nó có các vệt sẫm màu hơn không rõ ràng bên dưới mỗi vây lưng và hai dải sẫm màu trên vây đuôi, cũng như một cái mào nổi bật chạy dọc theo mép trên của vây đuôi.

Các lỗ mũi được phân chia bởi các vạt da hình tam giác ở vây bọc phía trước của chúng. Chúng có đôi mắt hình bầu dục nằm ngang, hơi cao và có mí mắt thứ 3 bảo vệ. Cá nhám mèo lùn có 5 cặp khe mang, 48 chiếc răng ở hàm trên và ít hơn ở hàm dưới.
Con đực trưởng thành thường dài 25cm, con cái trưởng thành có chiều dài trong khoảng 27-30cm. Chiều dài tối đa từng đo được là 30cm.
Lần đầu tiên loài này được ghi nhận là trong Báo cáo kỹ thuật của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA) của Stewart Springer viết năm 1979. Do chưa được nghiên cứu nhiều nên thông tin về loài cá này còn chưa nhiều.
Theo Tổ chức Kỷ lục Đông Nam Á (Aseanrecords.world) – Vietkings