Joseph Priestley (1733 – 1804) vừa là một mục sư giáo hội Cơ đốc (Anh), đồng thời là nhà lý luận chính trị, và nhà khoa học vật lý - người phát hiện ra nguyên tố ô-xy. Ban đầu mối quan tâm đến khoa học của ông là điện, nhưng về sau người ta nhớ đến ông trong lĩnh vực hóa học, đặc biệt là các loại khí.
Vào ngày 1/8/1774, ông đã xác định được một loại khí mà ông gọi là “không khí vận chuyển sâu” (tạm dịch từ "dephlogisticated air") – chính là khí ô- xy. Priestley thấy rằng thủy ngân bị nung nóng trong không khí đã bị tráng "rỉ sét đỏ của thủy ngân," mà khi nhiệt bị tách ra, thủy ngân lại trở lại nguyên dạng và tỏa ra loại khí này. Nghiên cứu loại khí được sinh ra đó, ông quan sát thấy rằng nến được thắp rất sáng trong lòng khí này.
Ngoài ra, một con chuột chạy trong một mạch kín với loại khí này có thể hít thở lâu hơn so với trong không khí bình thường. Ông cũng là người phát hiện ra điôxít lưu huỳnh, amoniac, các oxit nitơ, khí carbon monoxide và fluoride silicon. Priestley được nhớ đến là nhà sáng chế cách sản xuất nước soda (năm 1772), các máng khí nén, và nhận ra rằng màu xanh lá cây thực vật quang hợp với ánh sáng tạo ra oxy.
Theo Liên Minh Kỷ Lục Thế Giới (Worldkings.org)