Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng, không chỉ bởi cảnh đẹp mà nó còn là một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng đạo phật của người dân Việt Nam. Không giống bất kỳ nơi nào, Chùa Hương là một tập hợp nhiều đền chùa hang động gắn liền với núi rừng, và trở thành một quần thể thắng cảnh rộng lớn, với một kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và nhân tạo. Tạo hóa đã khéo bày đặt cho nơi đây núi non sông nước hiền hòa và rồi con người đã thổi hồn vào những điều kỳ diệu đó nó trở lên lung linh, sinh động và nhiều màu sắc. Chính điều đó đã tạo nên một nét văn hóa của dân tộc, đó là nét văn hóa tín ngưỡng đạo phật. Có lẽ đã trải qua nhiều thế kỷ, nét văn hoá đã in đậm vào trong tâm thức của mỗi con người Việt Nam ta khi đến với Chùa Hương, để rồi những tao nhân mặc khách hàng năm lại nô nức về đây với mong muốn được thắp một nén tâm hương, để thoả ước nguyện của mình. Trước một danh thắng như vậy các vị Vua Chúa và các vị nho nhã đã không tiếc lời thán phục. Năm 1770 khi Chúa Trịnh Sâm tuần thú Hương Sơn có đề khắc năm chữ lên cửa động Hương Tích “Nam Thiên Đệ Nhất Động ” (Động Đẹp Nhất Trời Nam), kỳ sơn tú thủy” (núi non đẹp lạ) và còn rất nhiều những thi nhân tới đây đã đề bút như: Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, Xuân Diệu. Chế Lan Viên, Hồ Xuân Hương.....
Lễ hội Chùa Hương gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Chúa Ba. Tương truyền rằng công chúa Diệu Thiện đã tu hành 9 năm tại Hương Sơn, sau đó đắc đạo thành Phật để phổ độ chúng sanh. Thời điểm mà công chúa Diệu Thiện đắc đạo cũng chính là giữa mùa Xuân, trăm hoa đua nở, cây cỏ xanh tươi, vạn vật tương sinh tương ái. Tháng 3 năm 1770, Chúa Trịnh Sâm trong chuyến tuần du tại Trấn Sơn Nam đã đến chùa Hương Tích vãn cảnh, thắp hương và đề lên cửa động 5 chữ “Nam Thiên Đệ Nhất Động”. Điều này đã biến động Hương Tích trở thành một di tích lớn và là tiền đề cho sự hình thành của lễ hội Chùa Hương. Đến năm 1896, niên hiệu Thành Thái thứ 8, lễ hội Chùa Hương mới chính thức được tổ chức như một lễ hội thực thụ và trở thành một trong những lễ hội lớn nhất của Việt Nam.
Ngày mùng 6 tháng giêng hàng năm là ngày khai hội Chùa Hương, ngày này vốn là ngày mở cửa rừng, của người dân địa phương sau này trở thành ngày khai hội. Lễ hội kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Nhân dân xã Hương Sơn và du khách thập phương khi trẩy hội thường gọi với cái tên dân dã là đi chùa Hương, bởi theo “Truyện Phật Bà chùa Hương” thì nơi đây là nơi tu trì và trác tích của đức Phật Quán Thế Âm Bồ Tát đã được Việt hoá và danh xưng là Phật Bà chùa Hương, nghĩa là: Dấu vết thơm tho.
Phần lễ chùa Hương
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chay đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo và đẹp mắt qua những động tác ít thấy ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền còn hương khói thì không bao giờ dứt.
Về phần lễ có nghiêng về "thiền" nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Hầu hết các du khách đi đến với chùa Hương vào dịp đầu xuân đều có một mục đích chung là dâng lên một lời nguyện cầu, một nén tâm hương. Tại nơi đây, du khách có thể dâng lên những lời nguyện cầu của đời sống chân thực, cầu mong sự sinh sôi nảy nở, ước mong cuộc sống đầy đủ. Nhà nông cầu mong mình làm ruộng gạo vun lên thành đụn gạo trắng như ngọc, người buôn bán mong sao có lãi, có lời, tiền của như cây vàng, cây bạc. Ai muốn con trai thì xoa đầu núi cậu, ai ước con gái thì xoa đầu núi cô. Còn người bệnh thì tin rằng những giọt nước từ bầu sữa tiên (vú mẹ) sẽ trợ thêm sức mạnh cho người mau khỏe. Đó thực là những tín ngưỡng của người lao động. Nơi đây không có chỗ cho những ai cầu vinh hoa danh vọng, chức tước, quyền hành.
Phần hội chùa Hương
Khi đến tham quan chùa Hương, du khách còn được hòa mình vào những hoạt động văn hóa, lễ hội tại nơi đây. Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn,…
Nhắc đến chùa Hương, người ta sẽ nghĩ ngay đến thuyền đò, đây là một phương tiện đi lại chính trong lễ hội. Du khách có thể coi ngồi thuyền là một thú vui tao nhã, vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Vào những ngày hội chính, hàng loạt những con thuyền đua nhau trên dòng suối Yến. Đây là một hoạt động giải trí không thể thiếu trong lễ hội.
Rời bến đò, du khách đến với các hoạt động leo núi đặc sắc của khu di tích. Du khách có thể leo bộ lên những bậc thang dẫn đến động Hương Tích, chùa Trong. Cảm giác thật tuyệt vời nếu bạn chinh phục từng bậc thang lên xuống vào động Hương Tích. Lựa chọn hình thức đi bộ hay cáp treo không thể hiện sự tôn kính mà thể hiện từ tâm của hành khách đến chùa Hương. Khi đi dọc bến đò hoặc đặt chân lên mảnh đất tâm linh bạn sẽ gặp những làn điệu dân ca hát chèo hoặc hát xẩm trên từng mái nhà tranh. Những làn dân ca cứ in sâu vào lòng du khách thập phương nếu đã một lần đến đây. Hãy dành cho mình những phút giây tuyệt vời nhất khi hòa mình vào những làn điệu dân ca, điệu hò truyền thống ấy.
Ý nghĩa của lễ hội Chùa Hương nằm trọn vẹn trong phần lễ và phần hội. Phần lễ thể hiện cho tín ngưỡng thờ cúng của tổng thể các tôn giáo Việt Nam lúc bây giờ, bao gồm Phật Giáo, Nho Giáo và Đạo giáo. Phần hội Chùa Hương thể hiện cho sự kết nối, hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, gia tăng sức mạnh đoàn kết dân tộc.
Đến với chùa Hương và tham dự vào cuộc tiếp xúc kỳ diệu giữ con người với vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền bí của hang động, ngời sáng của tòa tháp và cái đẹp không ngừng của mùa xuân cây cỏ. Đến với chùa Hương là cuộc hội ngộ của con người, với niềm mơ ước về một thế giới bình đẳng chan hòa tình thân ái. Đến với chùa Hương là dịp con người tìm về cội nguồn của tư duy, trỗi dậy sự nỗ lực, gặp gỡ bóng dáng tổ tiên mình một thời đã đi qua. Trải qua thăng trầm biến đổi của thời gian, lễ hội chùa Hương xưa vẫn tỏa sáng một nét đẹp văn hóa nguyên sơ, một vẻ đẹp lễ hội thuần khiết, thanh tao trong hệ thống lễ hội cổ truyền Việt Nam.