"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"
Câu đối trên không rõ có từ bao giờ và do ai viết hoặc ứng khẩu đọc ra. Nhưng cứ mỗi lần Tết đến, xuân sang người Việt Nam không mấy ai là không nhớ đến, nhắc đến 2 vế đối hay và độc đáo này. Bởi xưa cũng như nay việc làm câu đối, viết và treo câu đối đã trở thành một mỹ tục của nhân dân ta, cả ở thành thị lẫn ở nông thôn. Hơn thế nữa câu đối dù chỉ gồm có 2 câu song thất với 14 chữ, 6 danh từ mà đã gói gọn và phản ánh được rất nhiều phương diện, rất nhiều nét đẹp của cái Tết cổ truyền Việt Nam.
Câu đối trên cho ta biết những món ăn rất đặc trưng của người Việt trong dịp Tết, ấy là ba món thịt, dưa hành, bánh chưng xanh. Thực ra ba món này không phải chỉ đến khi Xuân về, Tết tới mới có. Song ngày thường, thuở xưa, trong bữa cơm của đại bộ phận người bình dân ở thôn quê và phường phố, mâm cơm 2 bữa sớm chiều chủ yếu chỉ gồm cơm, canh, rau quả, tương cà, cá mắm, … là chính mà thôi. Ba món thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh là những món ăn quý và cũng rất dân dã. Xét trên phương diện văn hoá ẩm thực, ba món này rất cân bằng, hài hoà về khẩu vị, về màu sắc, về âm dương. Vì vậy thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng được các gia đình bày dọn trên bàn thờ đã làm cho mâm cổ Tết trở nên sang trọng. Việc làm này nói lên lòng biết ơn sâu sắc và lòng thành kính của cháu con đối với tổ tiên, ông bà. Cùng với bánh dày, bánh chưng, theo quan niệm của tổ tiên ta thuở xưa là biểu trưng của trời đất, của vũ trụ.
"To lớn trong thiên hạ không gì bằng trời đất. Của báu nhất trần gian không gì bằng lúa gạo, …" (Ảnh minh họa)
Tết cổ truyền Việt Nam không chỉ có thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh mà còn có tràng pháo, cây nêu, câu đối đỏ. Tiếng pháo nổ giòn đêm 30, sáng mồng một Tết làm cho ngày xuân thêm rộn ràng, vui vẻ, ấm cúng. Người xưa tin rằng tiếng pháo sẽ xua được tà ma, ám khí. Tiếng pháo còn tượng trưng cho tiếng sấm gọi mùa xuân về, giúp cho lúa khoai, cây cối thêm xanh, thêm tốt. Tục trồng cây nêu vốn có nguồn gốc từ một huyền thoại trong Phật giáo. Cây nêu với nhiều vật trang trí trên đầu ngọn như cờ đỏ, lá xanh, … cắm trước sân nhà xem như một biểu tượng báo hiệu mùa xuân mới đã về.
Đồng thời, cây nêu cũng là một tín hiệu ngăn chặn và nhắc nhủ lũ quỷ không được tới quấy phá những nơi có con người cư trú, sinh sống, làm ăn, … (Ảnh minh họa)
Ngoài sân có cây nêu, thì trong nhà lại có câu đối đỏ. Viết câu đối, treo câu đối là một việc làm mang tính văn hóa cao. Màu đỏ của câu đối nơi cánh cửa, trên vách nhà,… làm cho nhà cửa ngày tết trở nên rực rỡ hơn, lộng lẫy và sáng sủa hơn.
Nội dung các câu đối thường là lời cầu chúc cho cuộc sống, cho con người được mọi điều tốt đẹp khi mùa xuân đến gõ cửa mỗi nhà. (Ảnh minh họa)
Nguồn gốc Tết Nguyên đán của người Việt

Minh chứng rõ nhất cho việc này đó là sự xuất hiện của bánh chưng, bánh dày - nhờ sáng kiến của Lang Liêu - con trai thứ 18 của đời Hùng Vương thứ 6. (Ảnh minh họa)
Ngày nay, cùng với người Trung Hoa, người Việt và các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc như Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, … cũng tổ chức Tết Âm lịch và nghỉ lễ chính thức. (Ảnh minh họa)

Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài từ 7-8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày của đầu năm mới (tức là từ 23 tháng Chạp - hết mùng 7 tháng Giêng). (Ảnh minh họa)
Ý nghĩa tên gọi Tết Nguyên đán của người Việt
Tết Nguyên đán của Việt Nam hay còn gọi là Tết cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết cổ truyền do đây là Tết đầu tiên trong năm, để phân biệt với một số dịp lễ khác như Tết Khai hàng, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, … Tết cổ truyền là một trong những dịp lễ quan trọng của đất nước Việt Nam. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn đón chào năm mới như Tết Táo quân (23 tháng Chạp Âm lịch), Tất niên (29, 30 tháng Chạp Âm lịch), …

Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa, Tết Nguyên đán Việt Nam không phải là Tết Nguyên đán của Trung Quốc. Bởi Viện ngôn ngữ học Hà Nội đã chứng minh rằng: Tết Nguyên đán của Việt Nam được tính theo chu kỳ quay của mặt trăng (tức là Âm lịch) trong khi Tết Nguyên đán của Trung Quốc lại được tính theo mặt trời (tức là Dương lịch). Cho nên, thực chất Tết của người Việt sẽ gần giống với Xuân Tiết của người Trung Hoa hơn. (Ảnh minh họa)