[VIETKINGS - TOP-BEST XUÂN 2023] Nguồn gốc và ý nghĩa Tết Nguyên đán từ câu đối xưa của người Việt

03-01-2023

(VIETKINGS - TOP-BEST) Tết Nguyên đán là một trong những kỳ nghỉ lễ lớn và quan trọng nhất của đất nước Việt Nam từ xưa đến giờ và Tết luôn mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc sâu sắc, độc đáo.

 

"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh"

Câu đối trên không rõ có từ bao giờ và do ai viết hoặc ứng khẩu đọc ra. Nhưng cứ mỗi lần Tết đến, xuân sang người Việt Nam không mấy ai là không nhớ đến, nhắc đến 2 vế đối hay và độc đáo này. Bởi xưa cũng như nay việc làm câu đối, viết và treo câu đối đã trở thành một mỹ tục của nhân dân ta, cả ở thành thị lẫn ở nông thôn. Hơn thế nữa câu đối dù chỉ gồm có 2 câu song thất với 14 chữ, 6 danh từ mà đã gói gọn và phản ánh được rất nhiều phương diện, rất nhiều nét đẹp của cái Tết cổ truyền Việt Nam.

Câu đối trên cho ta biết những món ăn rất đặc trưng của người Việt trong dịp Tết, ấy là ba món thịt, dưa hành, bánh chưng xanh. Thực ra ba món này không phải chỉ đến khi Xuân về, Tết tới mới có. Song ngày thường, thuở xưa, trong bữa cơm của đại bộ phận người bình dân ở thôn quê và phường phố, mâm cơm 2 bữa sớm chiều chủ yếu chỉ gồm cơm, canh, rau quả, tương cà, cá mắm, … là chính mà thôi. Ba món thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh là những món ăn quý và cũng rất dân dã. Xét trên phương diện văn hoá ẩm thực, ba món này rất cân bằng, hài hoà về khẩu vị, về màu sắc, về âm dương. Vì vậy thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng được các gia đình bày dọn trên bàn thờ đã làm cho mâm cổ Tết  trở nên sang trọng. Việc làm này nói lên lòng biết ơn sâu sắc và lòng thành kính của cháu con đối với tổ tiên, ông bà. Cùng với bánh dày, bánh chưng, theo quan niệm của tổ tiên ta thuở xưa là biểu trưng của trời đất, của vũ trụ.

 

"To lớn trong thiên hạ không gì bằng trời đất. Của báu nhất trần gian không gì bằng lúa gạo, …" (Ảnh minh họa)


Tết cổ truyền Việt Nam không chỉ có thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh mà còn có tràng pháo, cây nêu, câu đối đỏ. Tiếng pháo nổ giòn đêm 30, sáng mồng một Tết làm cho ngày xuân thêm rộn ràng, vui vẻ, ấm cúng. Người xưa tin rằng tiếng pháo sẽ xua được tà ma, ám khí. Tiếng pháo còn tượng trưng cho tiếng sấm gọi mùa xuân về, giúp cho lúa khoai, cây cối thêm xanh, thêm tốt. Tục trồng cây nêu vốn có nguồn gốc từ một huyền thoại trong Phật giáo. Cây nêu với nhiều vật trang trí trên đầu ngọn như cờ đỏ, lá xanh, … cắm trước sân nhà xem như một biểu tượng báo hiệu mùa xuân mới đã về.

 

Đồng thời, cây nêu cũng là một tín hiệu ngăn chặn và nhắc nhủ lũ quỷ không được tới quấy phá những nơi có con người cư trú, sinh sống, làm ăn, … (Ảnh minh họa)

 

Ngoài sân có cây nêu, thì trong nhà lại có câu đối đỏ. Viết câu đối, treo câu đối là một việc làm mang tính văn hóa cao. Màu đỏ của câu đối nơi cánh cửa, trên vách nhà,… làm cho nhà cửa ngày tết trở nên rực rỡ hơn, lộng lẫy và sáng sủa hơn.

 

Nội dung các câu đối thường là lời cầu chúc cho cuộc sống, cho con người được mọi điều tốt đẹp khi mùa xuân đến gõ cửa mỗi nhà. (Ảnh minh họa)

 

Nguồn gốc Tết Nguyên đán của người Việt 

Tết Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền lớn và lâu đời nhất nước ta, đồng thời có phạm vi cực kỳ phổ biến và rộng rãi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau của Tổ quốc. Đây được coi là một ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp nhất của cả dân tộc. Nhưng ít ai biết rằng, từ những thế kỷ trước, bắt đầu từ thời Lý - Trần - Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách vô cùng trang trọng và linh thiêng. Theo truyền thuyết và lịch sử của nước ta thì từ thời họ Hồng Bàng dựng nước Văn Lang đến thời Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân rồi vị thần này kết hôn với Âu Cơ sinh ra Hùng Vương thì từ ngày ấy, người Việt ta đã ăn Tết.
 
 

Minh chứng rõ nhất cho việc này đó là sự xuất hiện của bánh chưng, bánh dày - nhờ sáng kiến của Lang Liêu - con trai thứ 18 của đời Hùng Vương thứ 6. (Ảnh minh họa)

 
Từ đó, có thể thấy nước Việt ta đã sớm hình thành một nền văn hóa truyền thống mang bản sắc riêng của người Việt - với những đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước, cùng những sản vật từ lúa, gạo. Gạo - sản vật chính nuôi sống con người, trong đó có gạo nếp thơm ngon nhất nên được chọn làm thành các thứ bánh dành cho việc cúng tế tổ tiên trong ngày đầu năm.
Khác với thuyết cho rằng nguồn gốc Tết Nguyên đán bắt nguồn từ đất Việt thì có người lại cho rằng Tết cổ truyền của nước ta xuất phát từ Trung Quốc. Theo lịch sử của Trung Quốc thì nguồn gốc Tết Nguyên đán đã có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và được thay đổi theo từng thời kỳ. Ví dụ như đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Dần tức là tháng Giêng làm Tết Nguyên đán, nhà Thương lại thích màu trắng nên lấy tháng chạp (tháng Sửu) làm tháng đầu năm, nhà Chu lại ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý (tháng Mười Một) làm tháng Tết.
Đến đời nhà Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Nhưng đến đời nhà Tần (TK 3, TCN) Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (tháng 10) làm tháng Tết. Rồi đến nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần tức là tháng Giêng. Từ đó trở đi, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn ai thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng: Ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám sinh ra ngũ cốc. Cho nên, ngày Tết thường được tính từ mùng 1 đến hết mùng 7 tháng Giêng (8 ngày).
 

 

Ngày nay, cùng với người Trung Hoa, người Việt và các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc như Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, … cũng tổ chức Tết Âm lịch và nghỉ lễ chính thức. (Ảnh minh họa)

 
 
Do cách tính của Âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc. Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên đán thường đến muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận 1 tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21/01 Dương lịch và sau ngày 19/02 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch.

 

Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài từ 7-8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày của đầu năm mới (tức là từ 23 tháng Chạp - hết mùng 7 tháng Giêng). (Ảnh minh họa)

 

Ý nghĩa tên gọi Tết Nguyên đán của người Việt

Tết Nguyên đán của Việt Nam hay còn gọi là Tết cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết cổ truyền do đây là Tết đầu tiên trong năm, để phân biệt với một số dịp lễ khác như Tết Khai hàng, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, … Tết cổ truyền là một trong những dịp lễ quan trọng của đất nước Việt Nam. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn đón chào năm mới như Tết Táo quân (23 tháng Chạp Âm lịch), Tất niên (29, 30 tháng Chạp Âm lịch), …

Về mặt chữ thì tên gọi của Tết Nguyên đán được bắt nguồn từ Trung Quốc. Trong tiếng Hán, "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu còn "đán" có nghĩa là buổi sáng sớm cho nên ghép lại "nguyên đán" tức là buổi sáng khởi đầu của năm mới. Riêng chữ "Tết" lại được đọc chệch đi theo âm chữ Hán của chữ "tiết". Theo lịch của Trung Hoa, xưa kia thường chia 1 năm gồm có 24 tiết và Nguyên đán được coi là tiết đầu tiên trong năm.
Nhưng cũng có những thuyết cho rằng: Văn hóa Việt - thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước - do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian trong 1 năm thành 24 tiết khác nhau và ứng với mỗi tiết này đều có một thời khắc "giao thời" trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, chính là Tiết Nguyên đán. Rồi về sau, do sự phát triển vượt bậc của ngôn ngữ nên chữ "tiết" được Việt hóa thành "Tết" và hình thành nên tên gọi Tết Nguyên đán như ngày nay.
 

 

Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa, Tết Nguyên đán Việt Nam không phải là Tết Nguyên đán của Trung Quốc. Bởi Viện ngôn ngữ học Hà Nội đã chứng minh rằng: Tết Nguyên đán của Việt Nam được tính theo chu kỳ quay của mặt trăng (tức là Âm lịch) trong khi Tết Nguyên đán của Trung Quốc lại được tính theo mặt trời (tức là Dương lịch). Cho nên, thực chất Tết của người Việt sẽ gần giống với Xuân Tiết của người Trung Hoa hơn. (Ảnh minh họa)

 
Ngày Xuân cận kề, đọc lại một câu đối quen thuộc rồi ngẫm về nguồn gốc và ý nghĩa ngày Tết, chúng ta nhận ra bao vẻ đẹp của Tết Nguyên đán cổ truyền. Đằng sau những bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành, câu đối, tràng pháo, cây nêu là bóng dáng của cả một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước - một nền văn hóa có bề dày hàng ngàn năm lịch sử trên dải đất Việt Nam. Dĩ nhiên Tết cổ truyền nước ta không chỉ có những thứ ấy. Nhưng cũng chỉ cần nói tới mấy thứ sản vật và phong tục ấy thôi, chúng ta đã thấy được bao nét đặc sắc, độc đáo của sinh hoạt lễ tết ở nước ta./.

Nga Võ (tổng hợp & biên tập) - VietKings