[VIETKINGS – TOPPLUS đề cử] TOP 100 loại hình văn hóa – nghệ thuật đặc sắc của Việt Nam (P.40): Sình ca – Bản sắc cổ xưa độc đáo bậc nhất của người Cao Lan

11-03-2023

(kyluc-top) – Mỗi cộng đồng đều có những điệu hát riêng, tạo nên bản sắc. Nhắc đến đồng bào dân tộc thiểu số Cao Lan, người ta nhớ ngay đến làn điệu Sình ca. Họ tự hào rằng, ở đâu có người Cao Lan, ở đó Sình ca.

Mùa xuân - mùa của cỏ cây đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái; mùa của vạn vật sinh sôi; mùa của đất trời thay màu tươi mới; mùa bén duyên của tình yêu đôi lứa... với người dân Cao Lan, mùa xuân là mùa của lễ hội, mùa vui nhất trong năm, mùa của làn điệu Sình Ca được dịp “phiêu du”, dập dìu lan tỏa đi khắp muôn nơi.

Hát Sình ca là một thể loại dân ca trữ tình, nét sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo, hấp dẫn, lâu đời của người Cao Lan. Sình ca là lối hát giao duyên giữa nam và nữ, hay tốp nam với tốp nữ; được hát trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: hát trong đám cưới, ngày hội, hát khi Tết đến, Xuân về, hát trong lao động sản xuất, hát ru con của người mẹ,... Ngày xưa, các bài hát được ghi bằng chữ Hán cổ theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, khi phiên dịch ra tiếng Việt thường được chuyển thành thể lục bát cho có vần, có điệu”. Nghệ sỹ ưu tú Ma Văn Đức, nguyên Phó giám đốc Sở VHTT&DL Tuyên Quang, người dành mấy chục năm miệt mài nghiên cứu về văn hóa dân gian các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... cho biết: “Trong tiếng Cao Lan, Sình ca (hay Sịnh ca, Sềnh ca) có nghĩa là “thần”, “chúa”. Sình ca cũng có nghĩa là “xướng” - hát lên.

 

 

Làn điệu Sình ca gắn liền với câu chuyện tình của nàng Lưu Ba (Lau Slam). Không lấy được người thương yêu, nàng ủ rũ mất đi tất cả tâm hồn trong trẻo, yêu đời... Rồi một ngày, nàng rũ bỏ tất cả rời làng đi tìm tình yêu đích thực. Đi đến đâu nàng cũng hát, hát như chim được sổ lồng, ca từ cứ da diết, nồng nàn như dòng suối tuôn chảy. Người dân vừa nghe, vừa ghi chép lại thành vô số bài hát với nhiều thể loại khác nhau. Nhiều năm tìm kiếm người mình yêu, sức kiệt dần, nàng nhắm mắt, hòa vào núi rừng nơi tổ tiên đã chọn là chốn an ngự vĩnh hằng. Kho tàng Sình ca đồ sộ là minh chứng để người Cao Lan tôn Lưu Ba là bà chúa dân ca của riêng mình. Nàng là hiện thân của cái đẹp, giá trị đạo đức và nhân văn. Điệu hát sình ca do Lưu Ba sáng tác và được đồng bào dân tộc Cao Lan lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Có hai loại hình hát sình ca: một là hát theo lời hát cổ (người Cao Lan coi đó là lời hát của Lau SLam), hai là người hát tự sáng tác trong khi hát đối đáp để giãi bày tâm sự. Người hát sình ca không phụ thuộc vào tuổi tác, trẻ thì thường hát giao duyên, đối đáp, còn người cao tuổi thì hát theo lời cổ. Sình ca cũng có những nhạc cụ nhất định như: sáo, nhị; đặc biệt là trống sành. Song hành cùng tiếng hát là điệu múa bắt nguồn từ nghề trồng lúa và bẫy chim thú. Động tác trong các điệu múa đơn giản, nhịp nhàng, uyển chuyển cùng với nhạc cụ đã phản ánh cuộc sống lao động sản xuất cần cù của người Cao Lan. Qua đó, thể hiện những ước mơ, nguyện vọng của người lao động với thiên nhiên và thần linh… Bên cạnh những làn điệu cổ, người Cao Lan còn hát ngẫu hứng, sáng tạo ra những bài dân ca mới có ý nghĩa về đất nước, con người Việt Nam.

 

 

Dân ca Cao Lan được hát ở hầu khắp mọi nơi, như trong nhà, ngoài đường, ở chợ, trên đồi, trong rừng hay trên nương rẫy… Nếu như có bạn hát là người làng khác đến chơi thì chủ cũng hát trước, khách hát sau. Đó là những bài hát hỏi thăm gia cảnh, gia đình, quê hương… Đối với hát làm quen, giao duyên, địa điểm hát thường là một nhà nào đó trong làng. Cả chủ và khách, họ bắt đầu từ những bài hát hỏi, chào mừng lẫn nhau; khi quen hơn, họ hát đối đáp; khi đã hiểu về nhau, họ mượn những bài tả cảnh để nói với nhau về tình. Những cuộc hát như vậy thường từ chiều hôm trước tới lúc gà gáy hôm sau. Sáng hôm sau, họ tiếp tục ra đường hát và từ lúc này, người ta có thể sáng tạo thêm các bài để hát chơi, trêu ghẹo nhau, gọi là Sịnh ca ý. Khi cuộc hát đã tàn, một bên nửa muốn về, nửa muốn ở lại; một bên lại muốn níu giữ nên cứ dùng dằng kẻ ở người về, lưu luyến, nhớ nhung…

 

 

Dân ca Cao Lan bao gồm các thể loại:

Sịnh ca Thsăn lèn (mừng năm mới): là những bài hát để mừng năm mới, chúc tụng nhau đủ đầy, hạnh phúc, nhà nhà vui vẻ.

Sịnh ca Thsao bạo (đối giao duyên): là những bài hát phổ biến nhất và được nhiều người Cao Lan ưa thích. Nội dung những bài ca này thường là mượn cảnh thiên nhiên để trao đổi, tâm tình với nhau, hỏi thăm gia cảnh của nhau. Họ mượn lời hát để gửi gắm yêu thương, nhớ nhung hay trách móc, giận hờn để sau cuộc hát lại gần nhau hơn.

Sịnh ca Kên láu (hát đám cưới): là thể loại hát vui nhộn và phong phú về số lượng bài. Thường khi đến nhà gái, đoàn đón dâu của nhà trai phải hát thì nhà gái mới cho vào nhà. Từ khi đi đón dâu đến lúc đưa dâu về nhà chồng, phải trải qua ít nhất hai đêm hát.

Sịnh ca Tò tan (hát đố): gồm những bài hát được truyền lại và một số bài mới do người Cao Lan sáng tạo ra hàng ngày để đố nhau rồi tự giải nghĩa. Đây cũng thuộc loại hát vui, đầy tính sáng tạo ngẫu hứng, đòi hỏi người hát phải thuộc những bài cổ để trên cơ sở đó sáng tạo những bài mới.

 

 

Dân ca Cao Lan là sinh hoạt văn hóa đặc sắc được các thế hệ người Cao Lan kế thừa và lưu truyền từ nhiều đời nay. Trong tiềm thức của mỗi người dân Cao Lan đều có ý thức tự hào về lịch sử và văn hoá dân tộc mình, nên họ cùng nhau đoàn kết để gìn giữ và bảo vệ. Dân ca Cao Lan được lưu truyền hết sức tự nhiên và giản dị, bởi nó không bị lệ, luật ràng buộc chặt chẽ, cũng không bị lệ thuộc vào không gian hay thời gian thể hiện. Đơn giản, đó chỉ là những cuộc hát trong gia đình khi năm mới đến, hát chúc mừng khách đến chơi, hát giao duyên trong đám cưới, hát kể về công lao cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng, hát đối đáp khi lao động, hát giao duyên, hay ngày nay là ca ngợi Đảng và Bác trong các không gian rộng mở…, thể hiện muôn mặt đời sống văn hóa, tinh thần, các phong tục tập quán của người Cao Lan.

 

 

Dân ca Cao Lan còn là sinh hoạt tinh thần giúp gắn kết cộng đồng. Khi hát, người ta quên hết khó khăn, vất vả của cuộc sống thường ngày, quên đi mọi hiềm khích mà chỉ còn ở đó tiếng hát với tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, động viên nhau lao động và vui sống…, vì thế mà con người trở nên gần gũi, yêu thương nhau hơn.

Trước xu thế hội nhập, phát triển trong cuộc sống hiện đại, đời sống văn hoá, xã hội và tinh thần của người Cao Lan cũng có nhiều biến đổi. Dân ca Cao Lan đang bị mai một do thế hệ trẻ không còn say mê như trước. Hơn nữa, đa số những bài Sịnh ca được ghi chép bằng chữ Hán, nên chỉ có những người biết chữ Hán mới đọc được. Lớp người trung niên và mới lớn không biết chữ Hán thì không hiểu về nội dung của những câu hát, mặc dù họ vẫn hát kiểu “thuộc lòng”. Đây là những trở ngại đối với việc truyền dạy và lưu giữ di sản đặc sắc này của người Cao Lan.


Diệu Phi – VietKings (tổng hợp và biên tập)