Trò Xuân Phả là các trò diễn dân gian mô tả cảnh năm phương đến chầu, đem những tiết mục múa hát đặc sắc của quốc gia họ đến chúc mừng Hoàng đế nước Việt xưa. Trò Xuân Phả được hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ để trở thành một tổ hợp múa dân gian đặc sắc của làng Xuân Phả.
Theo truyền thuyết lưu truyền trong dân gian, trò Xuân Phả có từ thời Đinh, được biểu diễn trong lễ hội làng dịp mùng 9-10 tháng 2 âm lịch hằng năm tại xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân. Hệ thống trò diễn gồm 5 trò: Hoa Lang, Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc và Tú Huần (Lục Hồn Nhung), phản ánh việc sứ thần các nước lân bang đến tiến cống vua Nam Việt và nghinh bái Thành hoàng nước Nam. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, hệ thống trò diễn Xuân Phả đã dần hoàn thiện về kỹ thuật, trang phục, đạo cụ, âm nhạc và lời ca. Đặc biệt, các điệu múa và lời hát cổ vẫn được gìn giữ nguyên vẹn, không có sự pha trộn. Đây là những yếu tố tạo nên sức sống và sự hấp dẫn riêng có của trò diễn, được truyền nối từ thế hệ này sang thế hệ khác và thể hiện được sắc thái văn hóa, tinh thần riêng của người dân làng Xuân Phả trong suốt tiến trình lịch sử tồn tại và phát triển cùng vùng đất cổ Thọ Xuân.
Truyền thuyết kể lại rằng, vào thời vua Lê, khi đất nước có giặc ngoại xâm, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi cầu bách linh, bách tính và hiền tài cùng nhau đứng lên đánh giặc cứu nước. Khi quan quân đi đến bờ sông Chu, gần làng Xuân Phả thì gặp giông tố phải trú lại. Đến đêm, thần thành hoàng làng Xuân Phả báo mộng về cách đánh giặc, nhà vua làm theo quả nhiên thắng trận. Đất nước trở lại thanh bình, nhà vua mở hội mừng công. Trong ngày hội, các nước chư hầu, lân bang đã đến dự hội, vừa tỏ lòng khâm phục vua nước Đại Việt, vừa tỏ mối giao bang hòa hảo. Đặc biệt, các nước chư hầu, các bộ tộc đã mang theo đến hội nhiều điệu múa, hát đặc sắc của dân tộc mình, người dẫn đầu đoàn trò vào múa hát có mang theo một biển gỗ sơn son thiếp vàng giới thiệu về quốc gia, dân tộc mình như Trò Tú Huần mô phỏng hình dáng của một tộc người tới từ hải đảo xa xôi; trò Ai Lao, trò Ngô cũng mang sắc phục của các nước lân bang sang cống tiến vua Đại Việt, trò Hoa Lang (Hà Lan) diễn tả người Hoa Lang sang cống tiến vua Lê... Và đó chính là 5 điệu múa cổ có tên "Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống," gồm các trò Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc, Hoa Lang và Lục hồn Nhung (còn gọi là Tú Huần).
Trò Xuân Phả phản ánh một thời kỳ hưng thịnh của vương triều Lê Sơ sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, ca khúc khải hoàn. Vì vậy có thể khẳng định Trò Xuân Phả chính là thông điệp về sự giao hảo của quốc gia độc lập tự chủ với các nước trong khu vực và vị thế của nước Đại Việt ta thời bấy giờ là rất lớn, khiến cho các nước láng giềng phải mang lễ vật sang tiến cống (“lân bang ngũ quốc đồ tiến cống”).”
Cũng vì vậy mà trong trò Xuân Phả có bóng dáng của nghệ thuật cung đình thời bấy giờ. Đó là nét tinh tế, nhuần nhị, lớp lang của các lớp trò, với tích truyện được kết cấu tương đối bền vững, đem đến cho người xem cảm hứng sâu sắc. Đồng thời, có sự kết hợp nhuần nhuyễn, đầy ý vị của các yếu tố âm nhạc, múa, hát và diễn (gồm cả người diễn và người xem).
Múa trò Xuân Phả là sự kết hợp hoàn hảo giữa âm nhạc, lời ca, các điệu dân vũ và hóa trang nghệ thuật với sự xuất hiện của những chiếc mặt nạ đặc trung cho từng điệu múa. Trong năm điệu múa, chỉ ba điệu Chiêm Thành, Hoa Lang và Tú Huần có mặt nạ - những chiếc mặt nạ bằng gỗ chỉ che nửa mặt từ đỉnh mũi trở xuống, còn hai mắt cắm lông công. Trò Chiêm Thành và Hoa Lang người múa không đeo, mà ngậm mặt nạ nửa mặt bởi một chốt gỗ vào miệng. Mỗi điệu múa đều có những đặc sắc riêng về cả nội dung, hình thức và cách thức biểu diễn và lời ca.
Trò Hoa Lang tượng trưng cho người Cao Ly (Triều Tiên) tiến cống, với các nhân vật ông, cháu, mế nàng và mười quân. Trang phục gồm áo dài, đầu đội mũ cao da bò, tay trái cầm quạt, tay phải mái chèo, đeo mặt nạ cũng làm bằng da bò phết sơn trắng, mắt có lông công. Mũ Chúa được chạm rồng, chạm mặt nguyệt ở mũ Quân.
Trò Hoa Lang gồm 1 chúa, 1 mế nàng, 2 lính hầu, 10 quân và 2 người điều khiển ngựa. Đạo cụ cầu kỳ, với cờ, roi, quạt, siêu đao, mái chèo. Các con trò vừa múa, vừa hát theo nhịp thanh âm của trống, nạo bạt, mã la, mõ tre, lúc khoan thai, khi dồn dập. Lời hát thể hiện tình bang giao và “chúc mừng tuổi vua vạn niên/ ngai rồng ngự trị dân yên thái hòa”. Bên cạnh đó, trang phục với màu sắc và hoa văn bắt mắt, xuất hiện biểu tượng linh vật tượng trưng cho phẩm cấp quan lại phong kiến, cũng là tín hiệu của yếu tố cung đình trong trò diễn.
Trò Tú Huần tượng trưng cho người Thổ Hồn Nhung (Mông Cổ) tiến cống. Trò Tú Huần đầu đội mũ loóng làm từ tre, đeo mặt nạ gỗ miêu tả bà cố, mẹ và mười người con. Mũ tre đan như rế nồi úp ngược có lạt tre làm tóc bạc, đội trên miếng khăn vuông vải đỏ bịt đầu tóc. Mặt nạ gỗ sơn trắng vẽ mắt mồm màu đen rất “kinh dị”. Mặt bà cố nhăn nheo, mặt người mẹ thì già nua còn mười người con được chia thành năm cặp, mặt vẽ theo độ tuổi từ trẻ đến già với 1, 2,… 5 cái răng tương xứng. Đặc biệt trò Tú Huần được lưu truyền rộng rãi hơn các trò khác và theo nghiên cứu sử học đây cũng là một trong những trò lâu đời nhất.
Trò Ai Lao tượng trưng người Thái - Lào tiến cống, gồm Chúa Lào, người hầu, lính bảo vệ (mười quân), voi và hổ nhảy múa theo tiếng xênh tre được gõ nhịp liên hồi, biểu trưng cho sức mạnh săn bắt nhưng cũng rất mềm mại, uyển chuyển. Chúa đầu đội mũ cánh chuồn, mặc áo chàm xanh. Quân lính đội mũ rễ si, quấn phá ngang vai, chân mang xà cạp và tay cầm xênh tre.
Trò Ngô Quốc tượng trưng người Ngô Việt (Trung Hoa) tiến cống, có hai nàng tiên, ông chúa và mười quân đầu đội nón lính, áo màu lam, tay cầm mái chèo. Đầu màn có xuất hiện nhân vật người bán thuốc, người bán kẹo và thày địa lý múa một đoạn ngẫu hứng rồi nhường chỗ cho các nàng tiên cùng chúa và đoàn quân đi ra. Màn diễn gồm các điệu múa quạt, múa khăn rồi múa mái chèo.
Trò Chiêm Thành tượng trưng người Champa tiến cống. Trong trò Chiêm Thành, ngoài chúa, quân còn có thêm nhân vật phỗng. Áo chúa bằng đậu, áo quân bằng lụa, đều nhuộm màu đỏ hồng và không thêu thùa hoa văn. Chúa và quân đều vấn khăn vuông đỏ thành hai sừng thẳng đứng trên đầu. Áo phỗng là cổ sòi, cổ xiêm quấn xung quanh mình.
Xuân Phả được xem là sự kết tinh giữa nghệ thuật cung đình và trí tuệ dân gian. Sân khấu dân gian ra đời cùng với nhu cầu văn hóa khép kín trong làng xã và hội làng Xuân Phả mà điểm nhấn là múa Xuân Phả, tồn tại đến tận ngày nay cũng bởi nhu cầu cân bằng giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần con người. Nếu nói trò diễn dân gian là linh hồn của sân khấu tục lệ, thì trò Xuân Phả chính là sợi chỉ xanh lấp lánh được thêu thùa một cách cầu kỳ và lắm công phu trên bức họa làng quê bình yên và trù phú bao đời, với những tiếng trống, nhịp phách và những ca từ, giai điệu dẫu dân dã, chất phác nhưng chất chứa đầy ắp những tâm sự, khát khao của người dân.