Hình ảnh chén trà mở đầu câu chuyện hay nhắc đến trong thơ ca Việt Nam như đã mở ra không gian, thời gian thưởng trà. Giá trị văn hóa Việt Nam đề cao giá trị con người, do đó, trà đạo là cầu nối gắn kết con người Việt với nhau. Khởi từ đất trồng, địa hình, khí núi, nắng mưa, sương gió tưới tắm, ươm bật thành lộc non, lá nõn cho đến khi thu hái, sao chế, để có được một ấm trà ngon ngồi pha mà nhâm nhi thưởng thức, đó là cả một hành trình dằng dặc mà mỗi chặng, mỗi nhịp đều phải đạt đến cái chân nghệ thuật thì cái đích cuối cùng – một chén trà ngon mới thật viên mãn.
Trà được người Việt dùng suốt năm, suốt đời, kể từ quán nước bên hè phố đến ấm trà trong gia đình, hay những nhà hàng sang trọng. Nhâm nhi chén trà là khởi đầu cho những cuộc gặp gỡ hàn huyên của bạn bè tri kỷ, của những cuộc giao lưu bất chợt để từ không quen biết trở thành bạn. Cây chè Việt vì thế đã trở thành một thứ cây khởi nguồn cho sự giao tiếp tình cảm trong đời sống thường nhật, một thứ nước uống khó có thể thiếu của người Việt.
Tục uống trà của người Việt Nam đã có từ lâu đời, nhưng thật khó xác định là bắt đầu từ bao giờ. Từ thế kỷ 18, trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã viết về tục uống trà từ trước đó hàng nghìn năm. Các triều đại phong kiến nước ta từ xưa đã dùng trà. Trà đã đi vào thi ca, văn hóa cổ. Tục uống trà của người Việt Nam cũng rất phong phú. Từ cách uống trà cầu kỳ, cổ xưa, thường một bộ đồ trà có bốn cái chén quân, một chiếc chén tống. Nước pha trà lựa thứ nước mưa trong hoặc sương đọng trên lá sen mặt hồ, người ta đi thuyền hứng từng giọt vào buổi tinh mơ. Phương ngôn xưa còn lưu truyền những lời đúc kết về cách thưởng trà: “trà dư, tửu hậu”, “tửu sáng, trà trưa”, “rượu ngâm nga, trà liền tay” hay “chè ngon xin chớ ướp hoa”…
Trong nghệ thuật uống trà của người Việt có 3 cách thưởng trà: độc ẩm (một mình), đối ẩm (hai người), và quần ẩm (nhiều người) vừa thể hiện văn hóa thuần chất của mình đồng thời vừa có những tiêu chuẩn về chất lượng cũng như vị thế của việc thưởng trà. Độc ẩm được sử dụng khi người thưởng trà đang nhâm nhi lẩm nhẩm những câu thơ ôn luyện, đối ẩm là khi đôi bạn tâm giao cùng cởi mở văn bài tiêu dao, thậm chí hưng phấn cùng cầm kỳ thi họa và cùng nhau thưởng thức tiếng chim kêu nỉ non ngoài vườn. Quần ẩm thể hiện tính cộng đồng làng xã của Việt Nam, uống trà không phân biệt chức tước, địa vị, tất cả đều có thể quây quần bên nhau thưởng trà. Trà cũng như người bạn tâm giao của con người khi có tâm sự, giúp cho người ta nhớ đến tri ân, tri kỷ hoặc suy ngẫm về người, về mình, về nhân tình thế thái.
Nghệ thuật pha trà của người Việt có 5 tiêu chí cần chú trọng để buổi thưởng trà được trọn vẹn, đó là “Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh”.
Nước dùng pha trà thường phải là thứ nước mưa được hứng giữ trời, hay từ các suối nguồn tự nhiên, cầu kì hơn nữa là thứ sương đọng trên lá sen vào buổi sớm mai khi ánh mặt trời còn chưa xuất hiện. Cách đun nước cũng phải đảm bảo giữ được độ thanh tịnh và không làm ảnh hưởng đến hương vị của trà. Thời xưa, trong Hoàng cung, khi pha trà cho vua chúa và Hoàng hậu rất cầu kì và công phu, nước phải hứng từ các giọt sương trên búp sen lúc sáng sớm.
Đối với những người có đam mê uống trà, một loại trà ngon phải đáp ứng được 5 chuẩn mực: sắc, thanh, khi, vị, thần, tuy nhiên, với những người sành trà thì trà mộc móc câu là loại quý nhất. Trà pha ra phải có màu sắc thanh tao, mùi vị nhẹ nhàng nhưng không phai nhạt, nhiệt độ nóng ấm vừa đủ, vị chát ngọt nơi hậu vị. Và cuối cùng, “thần” – sự lôi cuốn của trà khiến người thưởng thức khó quên.
Bộ đồ pha trà chính là yếu tố tiên quyết để giữ nhiệt độ chuẩn giúp cho các cánh trà được thấm đều và đạt hương vị tinh tế. Chén tác động trực tiếp đến ba trong số năm giác quan của ta: thị giác, xúc giác và khứu giác. Màu nước trà đẹp lên, xấu đi hay chân thực là nhờ chén. Chén là món được nhìn nhiều nhất trong bộ trà cụ vì thế tạo hình và trang trí của chiếc chén sẽ va chạm với mắt mình nhiều hơn cả. Khi nâng chén trà, cảm giác phải nâng niu hay có thể cẩu thả từ chén mà ra. Tạo hình của chiếc chén sẽ quyết định diện tích thoát hương và luồng hơi bốc lên mang theo hương trà, vì thế mà hương trà toát ra mạnh hay yếu, tụ hay loang là nhờ ở chén. Chén đứng thứ ba bởi vậy.
Tùy theo lối uống “độc ẩm, đối ẩm hay quần ẩm” để chọn loại bình tương ứng. Kỹ năng pha trà tùy theo kinh nghiệm bí quyết của mỗi người, tùy vào chất lượng và hương vị của mỗi loại trà mà chọn loại ấm cho phù hợp. Trước khi pha trà, ấm trà phải được tráng bằng bằng nước sôi cho nóng trước rồi cho trà vào, khi pha xong đậy nắp kín, tiếp tục rót nước sôi từ trên nắp xuống như tắm ấm để giữ nhiệt độ nóng trong ấm.
Trước khi pha trà cần phải làm nóng ấm, chén, bằng cách này giúp ấm, chén được vừa tráng sạch và khi pha trà hương vị trà sẽ giữ được lâu.
Đong trà khô rồi rót từ từ và nhẹ nhàng nước nóng vào. Sau đó, rót hết nước vừa cho vào ở bước trên ra ngoài, thao tác này được gọi là đánh thức trà, giúp trà sạch hơn và loại bỏ bớt vị chát của trà
Tiếp tục rót nhẹ nhàng nước nóng vào ấm trà, đậy nắp và để yên hãm trong 20 - 25 giây.
Rót đều nước trà ra các chén rồi thưởng thức hương vị thơm ngon của trà.
Với người thưởng trà, “ngũ quần anh”, tức tìm bạn trà, đôi khi khó hơn tìm bạn rượu. Vì bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau thưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi niềm hay bàn chuyện gia đình, xã hội, chuyện Đông, chuyện Tây để cảm nhận trong trà có cả trời, cả đất.
Người thưởng trà sành điệu là người chọn thời điểm uống trà vào lúc mờ sáng (khoảng 4-5 giờ sáng) khi thời khắc âm dương giao hòa, đêm qua - ngày tới), uống trà thời khắc giao hòa này sẽ có lợi cho sức khỏe và tâm hồn, hướng người thưởng trà tới những điều tốt đẹp.
Về không gian thưởng trà của người Việt cũng đòi hỏi có một không gian rộng để tận hưởng được hết sự tinh túy của trà. Không gian thưởng trà thường mang hơi hướng của văn hóa thiền - là không gian thanh tịnh, thuần khiết, tao nhã, êm dịu. Lý tưởng nhất là những nơi có khung cảnh thiên nhiên đẹp, yên tĩnh, bên trong có tranh ảnh, thư pháp, góc đọc sách báo hoặc bàn cờ.
Khi xem việc uống trà là một biểu hiện văn hóa trong đời sống người Việt, sẽ thấy nó phản ánh trọn vẹn căn tính truyền thống của người Việt. Đó là con người làng xã, là con người của cộng đồng, tinh thần cộng đồng được hun đúc từ trong gia đình, làng xóm. Tính cộng đồng khiến người Việt giàu tình yêu thương và đức hy sinh, hy sinh cho cộng đồng nhỏ (gia đình, dòng họ) của mình, đến hy sinh cho cộng đồng lớn (làng xóm, đất nước). Trà Việt mang tính chất gần gũi với thiên nhiên, nó dạy cho người thưởng trà cái tính cộng đồng, gần gũi, biết cảm ơn những người đã một nắng hai sương trên cánh đồng chè. Vậy mới thấy văn hóa trà Việt đã được người đời tổng kết vừa có nét cầu kỳ, vừa mang tính dân dã.